Biểu trưng YouVersion
Biểu tượng Tìm kiếm

Lu-ca 2:1-40

Lu-ca 2:1-40 Kinh Thánh Tiếng Việt Bản Hiệu Đính 2010 (VIE2010)

Lúc ấy, Sê-sa Au-gút-tơ ra chiếu chỉ kiểm tra dân số trong khắp thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện trong thời Qui-ri-ni-u làm tổng đốc xứ Sy-ri. Mọi người đều phải trở về nguyên quán để đăng ký. Vì Giô-sép là dòng dõi nhà Đa-vít nên cũng từ thành Na-xa-rét, miền Ga-li-lê, lên thành Đa-vít, gọi là Bết-lê-hem, thuộc xứ Giu-đê, để đăng ký tên mình và tên Ma-ri, người đã đính hôn với mình, đang có thai. Đang khi hai người ở nơi đó thì ngày sinh nở của Ma-ri đã đến. Nàng sinh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc con mình đặt nằm trong máng cỏ, vì quán trọ không còn chỗ cho họ. Cũng trong vùng ấy, có mấy người chăn chiên trú ngoài đồng, thức đêm canh giữ bầy chiên. Một thiên sứ của Chúa hiện đến với họ, vinh quang của Chúa chói rạng chung quanh nên họ rất sợ hãi. Nhưng thiên sứ bảo họ: “Đừng sợ! Nầy, ta báo cho các ngươi một tin lành, đây sẽ là niềm vui lớn cho mọi người. Vì hôm nay tại thành Đa-vít, một Đấng Cứu Thế, là Đấng Christ, là Chúa đã được sinh ra cho các ngươi. Đây là dấu hiệu để các ngươi nhận ra Ngài: Các ngươi sẽ gặp một con trẻ bọc bằng khăn nằm trong máng cỏ.” Bỗng nhiên, có muôn vàn thiên binh cùng với thiên sứ ấy ngợi ca Đức Chúa Trời rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới đất, ân ban cho người!” Sau khi các thiên sứ lìa họ lên trời rồi, các người chăn chiên nói với nhau rằng: “Chúng ta hãy đi đến thành Bết-lê-hem xem việc đã xảy ra mà Chúa cho chúng ta biết.” Vậy, họ vội vàng đi đến đó, gặp Ma-ri, Giô-sép, và thấy con trẻ đang nằm trong máng cỏ. Khi thấy vậy, họ liền thuật lại những lời thiên sứ nói về con trẻ đó. Ai nghe chuyện các người chăn chiên kể cũng đều ngạc nhiên. Còn Ma-ri thì ghi tạc mọi lời ấy và suy ngẫm trong lòng. Các người chăn chiên trở về, tôn vinh và ngợi ca Đức Chúa Trời về mọi điều họ đã nghe và thấy, đúng như lời đã bảo trước với họ. Khi được trọn tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì họ đặt tên là Jêsus, là tên thiên sứ đã đặt trước khi con trẻ được thai dựng trong bụng mẹ. Khi những ngày thanh tẩy theo luật Môi-se đã mãn, cha mẹ đem con trẻ lên thành Giê-ru-sa-lem để dâng cho Chúa, như đã chép trong luật pháp của Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải biệt ra thánh cho Chúa”, và dâng một cặp chim gáy, hoặc chim bồ câu con, như luật pháp của Chúa đã truyền. Lúc ấy, tại thành Giê-ru-sa-lem có một người công chính và đạo đức, tên là Si-mê-ôn. Ông trông đợi sự an ủi của dân Y-sơ-ra-ên, và Đức Thánh Linh ngự trên ông. Đức Thánh Linh đã cho ông biết trước rằng ông sẽ không chết trước khi thấy Đấng Christ của Chúa. Được Thánh Linh cảm thúc, ông vào đền thờ đúng lúc cha mẹ đem con trẻ là Jêsus đến để làm cho Ngài các thủ tục theo luật pháp. Ông bồng ẵm con trẻ và ca ngợi Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Chúa, bây giờ xin Chúa cho đầy tớ Chúa ra đi bình an, Theo như lời Ngài; Vì mắt con đã thấy sự cứu rỗi của Ngài, Mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt muôn dân, Là ánh sáng soi đường cho các dân ngoại, Và là vinh quang của Y-sơ-ra-ên, tức dân Ngài.” Cha mẹ con trẻ ngạc nhiên về những lời Si-mê-ôn nói về con trẻ. Si-mê-ôn chúc phước cho hai vợ chồng và nói với Ma-ri, mẹ con trẻ rằng: “Con trẻ nầy đã được chỉ định để làm cho nhiều người trong Y-sơ-ra-ên vấp ngã hoặc trỗi dậy, và là một dấu hiệu gây nên sự chống đối. Còn cô, một thanh gươm cũng sẽ đâm thấu tâm hồn cô, để tư tưởng sâu kín của nhiều người phải lộ ra.” Cũng có nữ tiên tri An-ne, con gái của Pha-nu-ên, về bộ tộc A-se, tuổi đã cao. Sau khi kết hôn, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở góa, đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà chẳng hề rời khỏi đền thờ, cứ đêm ngày phục vụ Chúa, kiêng ăn và cầu nguyện. Vào giờ ấy, bà cũng đến đó, ca ngợi Đức Chúa Trời và nói về con trẻ cho mọi người đang trông đợi sự giải cứu thành Giê-ru-sa-lem. Khi đã hoàn tất mọi việc theo luật pháp của Chúa, Giô-sép và Ma-ri trở về thành của mình là Na-xa-rét thuộc miền Ga-li-lê. Con trẻ lớn lên và mạnh mẽ; đầy dẫy sự khôn ngoan, và ân điển của Đức Chúa Trời ở trên Ngài.

Lu-ca 2:1-40 Kinh Thánh Tiếng Việt 1925 (VIE1925)

Lúc ấy, Sê-sa Au-gút-tơ ra chiếu-chỉ phải lập sổ dân trong cả thiên-hạ. Việc lập sổ dân nầy là trước hết, và nhằm khi Qui-ri-ni-u làm quan tổng-đốc xứ Sy-ri. Ai nấy đều đến thành mình khai tên vào sổ. Vì Giô-sép là dòng-dõi nhà Đa-vít, cho nên cũng từ thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê, lên thành Đa-vít, gọi là Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, để khai vào sổ tên mình và tên Ma-ri, là người đã hứa gả cho mình, đương có thai. Đang khi hai người ở nơi đó, thì ngày sanh đẻ của Ma-ri đã đến. Người sanh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc con mình, đặt nằm trong máng cỏ, vì nhà quán không có đủ chỗ ở. Vả, cũng trong miền đó, có mấy kẻ chăn chiên trú ngoài đồng, thức đêm canh-giữ bầy chiên. Một thiên-sứ của Chúa đến gần họ, và sự vinh-hiển của Chúa chói-lòa xung-quanh, họ rất sợ-hãi. Thiên-sứ bèn phán rằng: Đừng sợ chi; vì nầy, ta báo cho các ngươi một tin lành, sẽ là một sự vui-mừng lớn cho muôn dân; ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu-thế, là Christ, là Chúa. Nầy là dấu cho các ngươi nhìn-nhận Ngài: Các ngươi sẽ gặp một con trẻ bọc bằng khăn, nằm trong máng cỏ. Bỗng-chúc có muôn-vàn thiên-binh với thiên-sứ đó ngợi-khen Đức Chúa Trời rằng: Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao, Bình-an dưới đất, ân-trạch cho loài người! Sau khi các thiên-sứ lìa họ lên trời rồi, bọn chăn chiên nói với nhau rằng: Chúng ta hãy tới thành Bết-lê-hem, xem việc đã xảy đến mà Chúa cho chúng ta hay. Vậy, họ vội-vàng đi đến đó, thấy Ma-ri, Giô-sép, và thấy con trẻ đang nằm trong máng cỏ. Đã thấy vậy, họ bèn thuật lại những lời thiên-sứ nói về con trẻ đó. Ai nấy nghe chuyện bọn chăn chiên nói, đều lấy làm lạ. Còn Ma-ri thì ghi-nhớ mọi lời ấy và suy-nghĩ trong lòng. Bọn chăn chiên trở về, làm sáng danh và ngợi-khen Đức Chúa Trời về mọi điều mình đã nghe và thấy y như lời đã bảo trước cùng mình. Đến ngày thứ tám, là ngày phải làm phép cắt-bì cho con trẻ, thì họ đặt tên là JêSUS, là tên thiên-sứ đã đặt cho, trước khi chịu cưu-mang trong lòng mẹ. Khi đã hết những ngày tinh-sạch rồi, theo luật-pháp Môi-se, Giô-sép và Ma-ri đem con trẻ lên thành Giê-ru-sa-lem để dâng cho Chúa, như đã chép trong luật-pháp Chúa rằng: Hễ con trai đầu lòng, phải dâng cho Chúa, lại dâng một cặp chim cu, hoặc chim bồ-câu con, như luật-pháp Chúa đã truyền. Vả, trong thành Giê-ru-sa-lem có một người công-bình đạo-đức, tên là Si-mê-ôn, trông-đợi sự yên-ủi dân Y-sơ-ra-ên, và Đức Thánh-Linh ngự trên người. Đức Thánh-Linh đã bảo trước cho người biết mình sẽ không chết trước khi thấy Đấng Christ của Chúa. Vậy người cảm bởi Đức Thánh-Linh vào đền-thờ, lúc có cha mẹ đem con trẻ là Jêsus đến, để làm trọn cho Ngài các thường-lệ mà luật-pháp đã định, thì người bồng-ẵm con trẻ, mà ngợi-khen Đức Chúa Trời rằng: Lạy Chúa, bây giờ xin Chúa cho tôi-tớ Chúa được qua đời bình-an, theo như lời Ngài; Vì con mắt tôi đã thấy sự cứu-vớt của Ngài, Mà Ngài đã sắm-sửa đặng làm ánh-sáng trước mặt muôn dân, Soi khắp thiên-hạ, Và làm vinh-hiển cho dân Y-sơ-ra-ên là dân Ngài. Cha mẹ con trẻ lấy làm lạ về mấy lời người ta nói về con. Si-mê-ôn bèn chúc phước cho hai vợ chồng, nói với Ma-ri, mẹ con trẻ rằng: Đây, con trẻ nầy đã định làm một cớ cho nhiều người trong Y-sơ-ra-ên vấp-ngã hoặc dấy lên, và định làm một dấu gây nên sự cãi-trả; còn phần ngươi, có một thanh gươm sẽ đâm thấu qua lòng ngươi. Ấy vậy tư-tưởng trong lòng nhiều người sẽ được bày-tỏ. Lại có bà tiên-tri An-ne, con gái của Pha-nu-ên, về chi-phái A-se, đã cao tuổi lắm. Từ lúc còn đồng-trinh đã ở với chồng được bảy năm; rồi thì ở góa. Bấy giờ đã tám mươi bốn tuổi, chẳng hề ra khỏi đền-thờ, cứ đêm ngày hầu việc Đức Chúa Trời, kiêng ăn và cầu-nguyện. Một lúc ấy, người cũng thình-lình đến đó, ngợi-khen Đức Chúa Trời, và nói chuyện về con trẻ với mọi người trông-đợi sự giải-cứu của thành Giê-ru-sa-lem. Khi Giô-sép và Ma-ri đã làm trọn mọi việc theo luật-pháp Chúa rồi, thì trở về thành của mình là Na-xa-rét trong xứ Ga-li-lê. Con trẻ lớn lên, và mạnh-mẽ, được đầy-dẫy sự khôn-ngoan, và ơn Đức Chúa Trời ngự trên Ngài.

Lu-ca 2:1-40 Kinh Thánh Bản Dịch Mới (NVB)

Vào thời ấy, Hoàng Đế Âu-gút-tơ ra chiếu chỉ kiểm tra dân số khắp đế quốc La Mã. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện khi Qui-ri-ni-u làm thống đốc Sy-ri. Mọi người đều phải về quê quán đăng ký. Vì Giô-sép thuộc giòng họ nhà Đa-vít nên cũng từ thành Na-xa-rét, thuộc vùng Ga-li-lê xuống Giu-đê, đến Bết-lê-hem, thành của Đa-vít, để đăng ký cho mình và cho Ma-ri, người đã đính hôn với mình, đang có thai. Trong khi ở đó Ma-ri chuyển bụng sinh nở. Nàng sinh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc hài nhi đặt nằm trong máng cỏ, vì quán trọ không còn chỗ. Trong vùng đó, có mấy người chăn chiên ở ngoài đồng, thức đêm canh bầy chiên. Một thiên sứ của Chúa hiện đến, hào quang Chúa toả sáng chung quanh nên họ rất khiếp sợ. Thiên sứ bảo: “Đừng sợ! Vì này tôi báo cho các anh một Tin Mừng, một niềm vui lớn cũng là Tin Mừng cho mọi người. Hôm nay, tại thành Đa-vít, một Đấng Cứu Thế vừa giáng sinh cho các anh. Ngài là Chúa Cứu Thế, là Chúa. Đây là dấu hiệu cho các anh nhận ra Ngài: Các anh sẽ gặp một hài nhi bọc trong khăn đặt nằm trong máng cỏ.” Bỗng nhiên, một đạo thiên binh xuất hiện cùng với thiên sứ ấy, ca ngợi Đức Chúa Trời: “Vinh danh Thượng Đế trên trời. Bình an dưới đất cho người Ngài thương.” Sau khi các thiên sứ lìa họ về trời, mấy người chăn chiên rủ nhau: “Chúng ta hãy vào thành Bết-lê-hem, xem việc vừa xảy ra mà Chúa đã cho ta hay!” Họ vội vàng ra đi, tìm gặp được Ma-ri với Giô-sép, và thấy hài nhi đang nằm trong máng cỏ. Thấy vậy, họ thuật lại lời thiên sứ nói về hài nhi. Ai nghe cũng đều ngạc nhiên về những lời tường thuật của mấy người chăn chiên. Còn Ma-ri ghi khắc những lời ấy và để tâm suy nghiệm. Mấy người chăn chiên trở về, tôn vinh và ca ngợi Đức Chúa Trời vì tất cả những điều họ nghe và thấy, đúng như lời thiên sứ đã báo trước cho mình. Khi được tám ngày, là lúc hài nhi chịu lễ cắt bì, con trẻ được đặt tên là Giê-su, tên thiên sứ đã đặt trước khi Ma-ri có thai. Khi kỳ thanh tẩy theo luật Môi-se đã hoàn tất, Giô-sép và Ma-ri đem hài nhi Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để dâng cho Chúa, như đã ghi trong Luật của Ngài: “Mỗi trưởng nam phải được dâng hiến cho Chúa.” và để dâng tế lễ theo luật Chúa dạy: “Một cặp chim ngói hoặc hai con bồ câu non.” Lúc ấy, tại Giê-ru-sa-lem, có cụ Si-mê-ôn là người công chính và sùng đạo. Cụ đang trông đợi niềm an ủi cho người Y-sơ-ra-ên. Thánh Linh ở trên cụ, và cụ được Đức Thánh Linh báo cho biết sẽ không qua đời trước khi thấy Đấng Cứu Thế của Chúa. Được Thánh Linh cảm xúc, cụ vào đền thờ đúng lúc cha mẹ đem hài nhi Giê-su vào để làm cho Ngài các thủ tục theo Kinh Luật. Cụ bồng ẵm hài nhi và chúc tụng Đức Chúa Trời: “Lạy Chúa, giờ đây xin cho đầy tớ Chúa Qua đời bình an, như lời Ngài đã phán. Vì mắt con đã thấy sự cứu rỗi của Ngài Mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt mọi người, Là ánh sáng khải thị cho các dân tộc, Và vinh quang cho Y-sơ-ra-ên Ngài.” Cha mẹ hài nhi rất ngạc nhiên về những lời cụ Si-mê-ôn nói về con trẻ. Cụ chúc phước cho họ và bảo Ma-ri, mẹ Ngài: “Đây, hài nhi này được chỉ định để làm cho nhiều người Y-sơ-ra-ên ngã xuống hoặc dấy lên, và là dấu hiệu cho người ta đả kích. Còn cô, một lưỡi gươm sẽ đâm xuyên qua linh hồn cô, để tư tưởng thầm kín của nhiều người bị phơi bày ra.” Cũng có nữ tiên tri An-ne, con gái của Pha-nu-ên, thuộc chi tộc A-se, tuổi đã cao. Vốn là một trinh nữ sau đó lấy chồng được bảy năm, rồi ở góa, đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Cụ ở luôn trong đền thờ, kiêng ăn, cầu nguyện và ngày đêm phục vụ Chúa. Chính giờ đó cụ vừa đến cảm tạ Đức Chúa Trời và nói về hài nhi cho mọi người đang trông đợi sự giải cứu Giê-ru-sa-lem. Sau khi làm xong mọi việc theo Luật Chúa ấn định, Giô-sép và Ma-ri trở về Ga-li-lê, thành Na-xa-rét, là thành của mình. Con trẻ lớn lên, mạnh khoẻ và đầy dẫy sự khôn ngoan. Ân phúc của Đức Chúa Trời ở trên Ngài.

Lu-ca 2:1-40 Kinh Thánh Hiện Đại (KTHD)

Thời đó, Hoàng đế La Mã Âu-gút-tơ ra lệnh kiểm kê dân số khắp Đế quốc La Mã. (Đây là cuộc kiểm kê dân số đầu tiên, được thực hiện thời Qui-ri-ni làm tổng trấn xứ Sy-ri.) Mọi người đều phải về quê đăng ký. Vì Giô-sép thuộc dòng họ Đa-vít, nên phải từ thành Na-xa-rét xứ Ga-li-lê, về làng Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, quê hương Vua Đa-vít, đăng ký cho mình và cô Ma-ri, vị hôn thê đang có thai. Về đến Bết-lê-hem, Ma-ri tới ngày sinh nở. Cô sinh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc lại, đặt trong máng cỏ, vì nhà quán không còn chỗ trọ. Tại miền đó, có mấy người chăn chiên đang ở ngoài đồng, thức đêm canh giữ bầy chiên. Thình lình, một thiên sứ của Chúa hiện ra, hào quang Chúa chói lòa khắp nơi. Họ vô cùng kinh hãi, nhưng thiên sứ liền trấn an: “Đừng sợ, tôi đến báo cho các anh một tin mừng. Tin này sẽ đem lại niềm vui lớn cho mọi người. Đêm nay, Đấng Cứu Rỗi—phải, Đấng Mết-si-a, là Chúa—đã ra đời tại Bết-lê-hem, thành Đa-vít! Các anh sẽ nhận ra Ngài bởi dấu hiệu: Các anh gặp một em bé quấn khăn nằm trong máng cỏ.” Thình lình, vô số các thiên sứ hiện ra, hợp với thiên sứ ấy ca ngợi Đức Chúa Trời: “Vinh quang Đức Chúa Trời nơi chí cao, bình an dưới đất cho người được ơn!” Khi các thiên sứ lên trời, các người chăn chiên bảo nhau: “Chúng ta hãy tới làng Bết-lê-hem xem chuyện lạ Chúa vừa cho biết!” Họ vội vã đến nơi, gặp Ma-ri, Giô-sép, và thấy Con Trẻ đang nằm trong máng cỏ. Họ liền thuật lại việc vừa xảy ra và những lời thiên sứ nói về Con Trẻ. Mọi người nghe đều ngạc nhiên, riêng Ma-ri ghi nhớ từng chi tiết và suy nghiệm trong lòng. Các người chăn chiên trở về, ca tụng Đức Chúa Trời về những điều nghe thấy, đúng như lời thiên sứ nói. Tám ngày sau, Con Trẻ chịu lễ cắt bì và được đặt tên là Giê-xu, như thiên sứ đã dặn trước khi Ngài giáng sinh. Khi những ngày thanh tẩy theo luật Môi-se đã mãn sau khi sinh con, Ma-ri và Giô-sép đem Con Trẻ lên Giê-ru-sa-lem dâng lên Chúa. Vì luật Chúa dạy: “Mọi con trai đầu lòng phải dâng lên Chúa Hằng Hữu” và “dâng một cặp chim cu hay bồ câu tơ” theo luật định của Chúa. Lúc đó, tại Giê-ru-sa-lem có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính, mộ đạo, và ngày đêm trông đợi Đấng Mết-si-a đến để giải cứu Ít-ra-ên. Chúa Thánh Linh ngự trong lòng ông, và cho biết ông sẽ được thấy Đấng Mết-si-a của Chúa trước khi qua đời. Hôm đó, Chúa Thánh Linh thúc giục ông vào Đền Thờ, nhằm lúc Ma-ri và Giô-sép đem Con Trẻ đến dâng lên Chúa đúng theo luật lệ. Si-mê-ôn bồng Con Trẻ và tôn ngợi Đức Chúa Trời: “Lạy Chúa Chí Cao, bây giờ con có thể an vui qua đời, theo lời hứa của Ngài. Vì chính mắt con đã thấy Đấng Cứu Chuộc mà Ngài chuẩn bị cho nhân loại. Ngài là ánh sáng rọi đường cho các dân tộc, là vinh quang cho người Ít-ra-ên, dân Ngài!” Giô-sép và Ma-ri kinh ngạc về những lời Si-mê-ôn nói về Con Trẻ. Sau khi cầu phước lành cho hai người, Si-mê-ôn nói riêng với Ma-ri: “Con Trẻ này sẽ làm cho nhiều người Ít-ra-ên vấp ngã trong khi nhiều người được giải cứu. Con Trẻ sẽ bị người ta chống đối. Kết quả là những tư tưởng thầm kín của họ bị phơi ra ánh sáng. Còn bà sẽ bị đau đớn như gươm đâm thấu vào tâm hồn bà!” Hôm đó, nữ Tiên tri An-ne cũng có mặt trong Đền Thờ. Bà là con gái của Pha-nu-ên, thuộc đại tộc A-se, trước kia đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở góa cho đến năm tám mươi bốn tuổi. Bà cứ ở luôn trong Đền Thờ, ngày đêm thờ phượng Đức Chúa Trời, kiêng ăn và cầu nguyện. Lúc Si-mê-ôn nói chuyện với Ma-ri và Giô-sép, bà cũng vừa tới đó, cảm tạ Đức Chúa Trời và báo cho mọi người biết Đấng Cứu Chuộc họ trông đợi đã đến rồi. Sau khi làm xong mọi việc theo luật pháp của Chúa, Giô-sép và Ma-ri trở về Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê. Tại đó, Con Trẻ lớn lên, khỏe mạnh, đầy khôn ngoan, và ơn phước của Đức Chúa Trời.

Lu-ca 2:1-40 Thánh Kinh: Bản Phổ thông (BPT)

Lúc ấy Xê-xa Au-gút-tơ ra sắc lệnh cho tất cả công dân thuộc các quốc gia dưới quyền của đế quốc La-mã phải đăng bộ. Đây là lần đăng bộ đầu tiên được thực hiện khi Qui-ri-niu làm tổng đốc xứ Xy-ri. Mọi người đều trở về nguyên quán để đăng bộ. Vì Giô-xép thuộc dòng họ Đa-vít, nên ông từ Na-xa-rét, một thị trấn miền Ga-li-lê, đi đến Bết-lê-hem thuộc miền Giu-đia, cũng gọi là thành Đa-vít. Ông đăng bộ cùng với Ma-ri là người đã hứa hôn với mình, lúc ấy đang mang thai. Trong khi hai người ở đó, thì Ma-ri đến ngày sinh. Cô sinh con trai đầu lòng, lấy vải bọc em bé và đặt nằm trong máng ăn súc vật, vì quán trọ không còn chỗ. Đêm ấy, có mấy anh chăn chiên thức canh bầy giữa đồng trống. Bỗng một thiên sứ của Chúa xuất hiện trước mặt họ. Vinh quang của Chúa chói lòa xung quanh. Các anh chăn chiên hốt hoảng. Thiên sứ liền trấn an, “Đừng sợ. Tôi báo cho các anh một tin mừng, sẽ là niềm vui lớn cho toàn dân. Hôm nay Đấng Cứu Thế đã được sinh ra trong thành Đa-vít. Ngài là Cứu Chúa. Đây là dấu hiệu để các anh nhận ra Ngài: Các anh sẽ gặp một hài nhi bọc bằng vải, nằm trong máng ăn súc vật.” Rồi một đoàn thiên sứ rất đông từ thiên đàng nhập cùng với vị thiên sứ đầu tiên, ca vang lời chúc tụng Thượng Đế: “Vinh danh Thánh Chúa trên trời, Hòa bình dưới thế cho kẻ làm vui lòng Ngài.” Sau khi các thiên sứ trở về thiên đàng, mấy anh chăn chiên bảo nhau, “Chúng ta hãy đi đến Bết-lê-hem để xem sự việc mà Chúa đã báo cho chúng ta.” Nên họ vội vàng ra đi tìm gặp được Ma-ri, Giô-xép và hài nhi mới sinh đang nằm trong máng ăn súc vật. Khi thấy hài nhi họ liền thuật lại lời thiên sứ nói về hài nhi ấy. Ai nấy đều kinh ngạc về lời của các anh chăn chiên. Nhưng Ma-ri ấp ủ và suy nghĩ những lời ấy trong lòng. Các anh chăn chiên trở về, ca ngợi và cảm tạ Thượng Đế về những gì họ đã nghe và thấy như lời thiên sứ đã bảo họ. Tám ngày sau khi sinh ra, hài nhi được cắt dương bì và đặt tên là Giê-xu, tức là tên mà thiên sứ đã đặt cho trước khi Ma-ri mang thai. Khi đến kỳ Ma-ri và Giô-xép phải thi hành những điều đã qui định theo Luật Mô-se về lễ tẩy sạch, hai ông bà đem hài nhi Giê-xu lên Giê-ru-sa-lem để dâng cho Chúa. Vì luật pháp Chúa có ghi: “Mọi con trai đầu lòng phải được dâng cho Chúa.” Ma-ri và Giô-xép cũng mang theo một của lễ để dâng theo luật Chúa viết: “Các ngươi phải dâng hai con chim cu hoặc hai con bồ câu con.” Ở Giê-ru-sa-lem có một người tên Xi-mê-ôn. Ông là một người đạo đức và thánh thiện. Ông chờ đợi lúc Thượng Đế cất sự đau khổ khỏi dân Ít-ra-en. Ông là người có Thánh Linh ngự. Xi-mê-ôn được Thánh Linh cho biết là ông sẽ không chết trước khi gặp Đấng Cứu Thế mà Chúa đã hứa. Thánh Linh hướng dẫn Xi-mê-ôn lên đền thờ đúng lúc Ma-ri và Giô-xép mang hài nhi Giê-xu đến để thi hành những điều mà luật pháp qui định. Xi-mê-ôn bế em bé trong tay và cảm tạ Thượng Đế như sau: “Lạy Chúa, bây giờ xin cho kẻ tôi tớ Chúa qua đời bình an theo như Ngài đã nói trước. Vì mắt con đã thấy hài nhi mà Ngài đã chuẩn bị để cứu chúng con, mọi dân tộc sẽ thấy điều ấy. Ngài là ánh sáng soi đường cho các dân không phải Do-thái và đem vinh dự lớn cho dân Ngài, tức dân Ít-ra-en.” Cha và mẹ của Chúa Giê-xu rất ngạc nhiên về điều Xi-mê-ôn nói về em bé. Rồi Xi-mê-ôn chúc phước cho gia đình và bảo Ma-ri, “Thượng Đế đã chọn em nầy để gây vấp ngã và giục giã cho nhiều người trong Ít-ra-en. Em nầy sẽ là một dấu hiệu từ Thượng Đế, mà nhiều người không chấp nhận, để cho ý tưởng của nhiều người được phơi bày ra. Còn những gì xảy ra sẽ làm cho chị rất đau lòng.” Có một nữ tiên tri tên An-na, xuất thân từ gia đình Pha-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. An-na đã cao tuổi lắm. Sau khi lập gia đình, bà sống với chồng được bảy năm rồi ở góa, đến nay đã tám mươi bốn tuổi. An-na không khi nào ra khỏi đền thờ nhưng bà trung tín thờ phụng Thượng Đế, cữ ăn và cầu nguyện ngày và đêm. Lúc Xi-mê-ôn nói, bà cũng đang đứng đó. Bà cảm tạ Thượng Đế và thuật về hài nhi Giê-xu cho những người trông chờ Thượng Đế giải phóng Giê-ru-sa-lem. Sau khi Giô-xép và Ma-ri thi hành xong những điều luật pháp Chúa qui định, thì trở về quê nhà ở Na-xa-rét thuộc miền Ga-li-lê. Cậu bé dần dần khôn lớn và mạnh mẽ, ân phúc của Thượng Đế ở cùng cậu.

Lu-ca 2:1-40 Kinh Thánh Tiếng Việt, Bản Dịch 2011 (BD2011)

Lúc ấy Hoàng Đế Âu-gút-tơ ra chiếu chỉ truyền lịnh kiểm tra dân số trong cả đế quốc. Đây là cuộc kiểm tra dân số đầu tiên, được thực hiện khi Qui-ri-ni-u làm thống đốc xứ Sy-ri-a. Ai nấy đều phải trở về nguyên quán để khai hộ tịch. Vì thế Giô-sép, đang ở Thành Na-xa-rét, miền Ga-li-lê, cũng phải trở về thành của Đa-vít, tên là Bết-lê-hem, trong miền Giu-đê, bởi vì chàng thuộc về gia tộc và dòng dõi của Vua Đa-vít, để khai hộ tịch cho chàng và Ma-ry, người đã đính hôn với chàng, đang mang thai. Đang khi hai người ở đó, ngày Ma-ry sinh con đã đến. Nàng sinh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc con lại, rồi đặt con nàng vào trong máng cỏ, vì lữ quán không đủ chỗ ở. Bấy giờ trong miền đó có mấy người chăn chiên đang ở ngoài đồng, thức đêm canh giữ đàn chiên. Thình lình một thiên sứ của Chúa hiện đến với họ; hào quang của Chúa chói lòa quanh họ; họ rất sợ hãi. Thiên sứ phán, “Đừng sợ, vì này, ta báo cho các ngươi một tin mừng, tin này sẽ là niềm vui lớn cho muôn dân: Hôm nay trong Thành Đa-vít, đã sinh ra cho các ngươi một Đấng Giải Cứu; Ngài là Đấng Christ, là Chúa. Đây là dấu để các ngươi nhận ra Ngài: các ngươi sẽ thấy một Hài Nhi được bọc trong khăn, nằm trong máng cỏ.” Thình lình muôn vàn thiên binh hiện ra, hiệp cùng vị thiên sứ đó trỗi tiếng ca ngợi Đức Chúa Trời rằng, “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người được ơn.” Sau khi các thiên sứ đã lìa họ lên trời, những người chăn chiên nói với nhau, “Nào, chúng ta hãy vào Thành Bết-lê-hem để xem việc mới xảy ra, mà Chúa đã cho chúng ta hay.” Thế là họ vội vã lên đường và tìm được Ma-ry với Giô-sép và một Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Thấy vậy, họ thuật lại những điều họ đã được báo về Hài Nhi. Nghe những người chăn chiên nói thế, mọi người đều lấy làm lạ. Nhưng Ma-ry ghi nhớ những lời ấy và suy gẫm trong lòng. Những người chăn chiên trở về, làm vinh hiển và ca tụng Đức Chúa Trời về những gì họ đã nghe và thấy đúng y như họ đã được báo tin. Khi tám ngày đã mãn, người ta cắt bì cho Ngài và đặt tên Ngài là Jesus, tức tên thiên sứ đã gọi trước khi Ngài được thụ thai trong lòng mẹ. Khi những ngày dành cho kỳ tinh sạch theo Luật Pháp Môi-se đã mãn, họ đem Ngài lên Giê-ru-sa-lem để dâng lên Chúa, theo như đã chép trong Luật Pháp của Chúa rằng, “Mọi con trai đầu lòng sẽ được biệt riêng ra thánh cho Chúa.” Họ cũng dâng một của lễ, theo như đã định trong Luật Pháp của Chúa, “Một cặp chim gáy hoặc hai chim bồ câu con.” Lúc ấy ở Giê-ru-sa-lem có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là một người công chính và tin kính nhiệt thành; ông hằng trông đợi niềm an ủi của dân I-sơ-ra-ên, và Đức Thánh Linh ngự trên ông. Ông đã được Đức Thánh Linh mặc khải cho biết ông sẽ không qua đời trước khi trông thấy Đấng Christ do Chúa sai đến. Theo sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, ông đi vào đền thờ, nhằm lúc cha mẹ của Hài Nhi Jesus đem Ngài vào đền thờ để làm những thủ tục theo như Luật Pháp quy định. Ông bồng Hài Nhi trên tay và ca tụng Đức Chúa Trời rằng, “Lạy Chúa, bây giờ xin cho tôi tớ Ngài qua đời bình an, Theo như lời Ngài đã phán, Bởi vì chính mắt con đã thấy ơn cứu rỗi của Ngài, Mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt muôn dân. Con Trẻ này là ánh sáng soi đường cho các dân ngoại, Và là vinh hiển của I-sơ-ra-ên dân Ngài.” Cha mẹ của Ngài lấy làm lạ về những điều ông nói về Ngài. Si-mê-ôn chúc phước cho họ và nói với Ma-ry mẹ Ngài, “Này, đứa trẻ này sẽ là cớ cho nhiều người trong I-sơ-ra-ên ngã nhào hay trỗi dậy và sẽ là cớ cho người ta chống đối, để những tư tưởng thầm kín trong lòng họ được lộ ra. Còn chính cô, cô sẽ đau đớn như bị một thanh gươm đâm thấu vào lòng.” Lúc ấy cũng có một nữ tiên tri, bà An-na con gái của Pha-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà rất cao tuổi. Số là sau khi thành hôn và sống với chồng được bảy năm, bà tiếp tục sống cuộc đời một góa phụ cho đến bấy giờ đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời khỏi khuôn viên đền thờ nhưng cứ ở trong đó, kiêng ăn, cầu nguyện, và phụng sự Chúa cả ngày lẫn đêm. Ngay lúc đó bà đến, ca ngợi Đức Chúa Trời, và nói về Hài Nhi cho mọi người đang trông đợi sự giải cứu Giê-ru-sa-lem. Khi họ đã làm xong mọi thủ tục theo Luật Pháp của Chúa, họ trở về miền Ga-li-lê và ngụ tại Na-xa-rét, thành của họ. Ấu Nhi lớn lên, khỏe mạnh, đầy khôn ngoan, và ân sủng của Đức Chúa Trời ở trên Ngài.